Jump to content
Hospitality Community

Search the Community

Showing results for tags 'blockchain'.

  • Search By Tags

    Type tags separated by commas.
  • Search By Author

Content Type


Forums

  • Our Thousand-Star Hotel
    • Announcements
    • General Discussion
    • Hotel Operations
  • Our Technologies
    • News
    • Hospitality
    • Cloud Computing
    • Cyber Security
    • Data Science
    • Artificial Intelligence
    • Internet of Things
    • Blockchain
    • Ask Me Anything
  • Our Lives
    • Though of the Day
    • Hobbies
    • Self Improvement
    • Troll Corner
    • OnPrem & Cloud Market

Product Groups

There are no results to display.


Find results in...

Find results that contain...


Date Created

  • Start

    End


Last Updated

  • Start

    End


Filter by number of...

Joined

  • Start

    End


Group


About Me

Found 2 results

  1. Blockchain thời nguyên thủy Vào thời nguyên thủy, lúc trái đất còn sơ khai, loài khủng long và các loài thiên địch của loài người, một loài vừa tiến hóa từ loài Homosapien, "bỗng dưng biến mất", lúc này tổ tiên của Tư Nòng Nọc và tổ tiên của sếp Hai Ếch đang sống chung trong một cái hang đá. Cái hang đá này gọi là hang YEPIAN. Trong cái hang này, có khoảng 500 người cùng chung sống. Hang YEPIAN có một vùng nước biển, đủ cho khoảng 1500 người tắm, họ đó gọi là Lagoon Beach. Dưới biển có rất nhiều đá san hô, gọi là đá YEPESE, mỗi cục nặng non khoảng 1 tấn. Những người sống ở hang này dùng các hòn đá san hô để trao đổi cho sản vật đánh bắt được, ví dụ cá nướng đèo hoặc mực câu một nắng... Tuy nhiên các hòn đá này lại quá nặng, họ không thể vác lên bờ để trao đổi vật lý được. Vậy là họ thanh toán với nhau bằng cách chỉ hòn san hô (kiểu mua đất rẫy vài trăm héc ta không sổ như bây giờ, cứ đứng chỉ từ cây keo này đến cây tràm kia). Tuy nhiên sau khi giao dịch, không có cách nào để khẳng định là hòn san hô đó thuộc sở hữu của ai để tránh tranh chấp! Tập trung Họ giao cho cụ Ếch Sấu Tỏi, là người già nhất, được kính trọng và tin cậy nhất cái hang là nhân chứng cho toàn bộ giao dịch. Không có cuộc giao dịch nào diễn ra mà không có mặt cụ Ếch Sấu Tỏi. Túm lại là cái mâm nào cũng có mặt cụ. Cụ có một cuốn sổ, và cuốn sổ này cụ ghi lại tất tần tật mọi cái giao dịch. Đây gọi là cuốn sổ cái tập trung. Đùng một cái, cụ ốm! Hôm đó, mọi giao dịch ngưng trệ! Hôm sau cụ tỉnh lại, cụ mới hỏi, "Ơ thế giao dịch hôm qua như thế nào?", "Ngưng cụ ạ, ngưng tất. Nguyên cái hang này mà không cụ thì không có cái giao dịch nào được thực hiện cả". Thằng Năm Cóc trả lời! Cụ mới thở dài, "Thôi, thế lỗi của tao rồi". Ngày hôm sau, nhà Tư Nòng Nọc câu được con cá mú đỏ, cỡ 10kg gì đó, đem đi giao dịch với nhà Hai Ếch. Cụ lại ốm, chưa khỏe hẳn. Cụ ủy quyền cho thằng Năm Cóc đi đại diện giao dịch và ghi nhận. Người mua cá mú là người nhà Năm Cóc. Năm Cóc thấy vậy bèn không ghi nhận cái hòn đá san hô đấy cho nhà Tư Nòng Nọc, mà vẫn để yên trong cuốn sổ giao dịch, tức là vẫn thuộc sở hữu nhà Năm Cóc. Cãi lộn tranh giành hòn đá san hô ì xèo. Nhà nào cũng đòi là chủ sở hữu của hòn đá san hô YEPESE. Cụ Hai Ếch lại tỉnh lại, cụ cay đắng nhận ra thằng Năm Cóc làm như vậy là không đúng, không công bằng và cụ chính là điểm yếu của hệ thống này. Cụ bèn từ chức! Mọi giao dịch lại bị ngưng trệ. Con cháu mấy trăm ngàn năm sau họ gọi sự kiện đó là International Trading Group's Single Point of Failure, điểm thất bại duy nhất của nhóm giao dịch quốc tế, chỉ vì tính chất tập trung của nó. Ảnh minh họa thằng Năm Cóc (hình: Internet) Phi tập trung Từ khi cụ Hai Ếch từ chức, mọi giao dịch ngưng trệ. Chợ búa vắng toe, cóc, nhái, ễnh ương, chàng hiu... nhảy lổm ngổm đầy chợ, nói chung rất chi là bát nháo. Tổ tiên Tư Nòng Nọc muốn vực lại cái chợ này, mới nảy ra cách sử dụng một cuốn sổ cái khác, nhằm ghi nhận lại các giao dịch, gọi là cuốn sổ Đầu Não. Cuốn sổ này dùng trí nhớ để ghi nhận giao dịch. Cứ mỗi khi có giao dịch giữa 2 người, thì 498 người còn lại trong hang sẽ cùng ghi nhớ giao dịch này. Như vậy 500 người cùng có một thông tin về hòn đá san hô đó đang là của ai, nghĩa là có tới 500 bản cùng một nội dung. Tiếp tục, khi một người nào đó sở hữu viên đá san hô đó, và muốn giao dịch mua con mú mới câu bằng viên đá đó, anh ta sẽ lại gọi 498 người còn lại trong hang tới làm chứng giao dịch, lúc này hòn san hô đã có chủ mới, 500 cái đầu cùng ghi nhớ hòn san hô mới đó là của ai. Cuộc sống cứ thế tiếp diễn... Ai ai cũng happy. Đây gọi là cuốn sổ cái phi tập trung. Thời hiện đại Mấy trăm ngàn năm sau, con cháu tiến hóa lên. 500 con theo cha xuống biển, 500 con theo mẹ lên rừng. Có một lần tụ họp lại vào ngày giỗ tổ, họ tính làm vài cái giao dịch để lấy tiền làm giỗ. Vì 500 anh em trên rừng dưới biển xa nhau cũng đã lâu, tính nết cũng chả biết thế nào, tin hay không tin cũng chả rõ, họ phát minh ra cái gọi là sổ cái phi tập trung, decentralized ledger, chạy bằng các còm bu tơ (computer), chứ không dùng bằng giấy. Cũng như tổ tiên, cách hoạt động giống cuốn sổ Đầu Não, các giao dịch thành công tốt đẹp. Tuy nhiên, trong 1000 cái máy tính, có mấy trăm ông ở xa, vé máy bay lại tăng giá do BlackPink biểu diễn, nên tới chậm không kịp bật máy, không kịp cập nhật giao dịch. Cũng có vài ông lại muốn ăn ra, nên cố tình cập nhật chênh lệch giao dịch. Số lượng các ông này tầm khoảng 490 ông. Khi các ông bật máy lên, sau khi các máy tính của các ông đấy đều ghi nhận đúng chính xác - không sai một ly - các giao dịch và số tiền đã chi. Một số ông cứ ớ à ớ à, sao lại thế, tôi đã cố tình sửa giao dịch rồi mà. Các ông ấy không biết rằng, cho dù 490 máy có dữ liệu sai, đã cố tình chỉnh sửa để ăn ra, nhưng 510 máy khác của 510 ông còn lại dữ liệu giống nhau, thì dữ liệu sẽ đi theo 510 ông, chứ không phải 490 ông. Cái này được gọi là "sự đồng thuận nhóm - group consensus". Điều này có nghĩa là, khi 1000 máy tính kết nối lại với nhau, cùng trao đổi về các giao địch đã thực hiện, dữ liệu chính thức được ghi nhận và cập nhật đến tất cả 1000 máy tính trong mạng, sẽ được ghi nhận theo con số 51% máy tính có dữ liệu giống nhau. Còn cách thức để các máy tính hiểu và đạt được sự đồng thuận trên, được gọi là "consensus protocol". ...
  2. Những chỉ số KPI “đẹp” thường dễ gây ấn tượng. Tỷ lệ lấp đầy, chỉ tiêu sinh lời, tỷ suất hoàn vốn là những công cụ đo lường truyền thống mà rất nhiều nhà quản lý cũng như chủ đầu tư dựa vào để đánh giá hoạt động kinh doanh của khách sạn mình. Nhưng thật không may, giờ đây chúng lại phát ra các tín hiệu sai lệch và không còn khả năng hỗ trợ tương xứng trong cuộc chiến cạnh tranh phát triển hiện đại. Để có thể bao quát bức tranh toàn cảnh về khả năng hoạt động của khách sạn, bạn cần chú ý thêm các yếu tố bổ xung. Khách sạn có coi trọng vấn đề an toàn? Khách sạn có mang đến cho khách dịch vụ xuất sắc? Một cái nhìn tổng thể hơn về vị trí khách sạn của bạn trong bối cảnh chung của ngành công nghiệp sẽ phác họa rõ nét hơn khả năng hoạt động của nó. Vậy làm thế nào để đánh giá chính xác khả năng hoạt động của khách sạn? Dưới đây là sáu yếu tố bạn cần xem xét kỹ lưỡng. Tài Chính: Không cần phải diễn giải màu mè, giống như bất cứ ngành nghề kinh doanh nào, khách sạn cũng chỉ là những doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận. Mục tiêu đó đòi hỏi người quản lý khách sạn phải vận dụng các phương pháp kế toán quản trị chiến lược bao gồm tối ưu chi phí, phân tích các chuỗi giá trị và đối chuẩn (benchmarking). Để làm vậy, họ có thể lựa chọn các chiến lược kinh doanh hướng thị trường hoặc hướng bán hàng để tối ưu kết quả tài chính của mình. Tương tự, họ có thể lựa chọn mô hình quản lý hoanh thu phòng truyền thống, hoặc hướng đến phương pháp quản lý tổng doanh thu, hoặc, nếu họ am tường công nghệ, có thể ứng dụng khoa học dữ liệu (data science) vào công tác quản lý doanh thu. Một số chỉ tiêu KPI có thể được sử dụng để trả lời các câu hỏi về tình hình tài chính của khách sạn: Doanh nghiệp có đang ghi nhận tỷ suất hoàn vốn (ROI) vững chắc? Hoạt động khách sạn có hiệu quả như mong đợi? Và không thể không nhắc đến hai trong số các chỉ tiêu quan trọng: ALOS và GOP PAR. Chỉ tiêu ALOS (Average length of stay – thời gian lưu trú trung bình) thường được sử dụng để đánh giá hiệu suất, giá trị ALOS càng cao, hiệu suất (và kéo theo đó là lợi nhuận) của khách sạn càng cao nhờ giảm được nhân lực dọn phòng và xử lý các booking mới. Trong khi đó GOP PAR (Gross Operating Proffit per Available Room – Lợi nhuận gộp trên mỗi phòng trống) cung cấp chỉ số để xác định bộ phận nào của khách sạn sinh lời nhiều nhất, qua đó giúp nhà quản lý cân nhắc thấu đáo hơn các khoản chi phí vận hành. Hiệu suất bán: “Tài chính” hiển nhiên là một chủ đề rất rộng và chịu chi phối bởi rất nhiều yếu tố. Nổi lên trong số đó là hiệu suất bán. Doanh số bán của một khách sạn tăng vọt hay giảm sút cũng lại chịu chi phối bởi nhiều yếu tố, một vài yếu tố chủ quan có thể kiểm soát được bởi khách sạn, ví dụ các hoạt động marketing - liệu có đang tận dụng được tiềm năng to lớn của online marketing? – hoặc khả năng điều chỉnh các gói dịch vụ cho phù hợp với các phân khúc cụ thể; cũng có nhiều yếu tố mang tính khách quan hoặc do thị trường chi phối không dễ để kiểm soát, ví dụ sự nổi lên của Airbnb hay sự sụt giảm đột ngột lượng khách do khủng hoảng Covid-19. Điều tạo ra sự khác biệt của các khách sạn thành công là cách họ chọn phản ứng với những tình huống này. Các chỉ số như RevPAR (revenue per available room - doanh thu trên mỗi phòng trống), ADR (average daily rate - giá trung bình hàng ngày), hoặc OCC (average occupancy - tỷ lệ lấp đầy trung bình) có thể được sử dụng để đo lường hiệu suất bán. Chỉ số thâm nhập thị trường (MPI – market penetration index) và chỉ số tạo doanh thu (RGI – revenue generated index) có thể giúp đánh giá một khách sạn nào đó có đang hoạt động hiệu quả. Chỉ số MPI cho bạn biết có bao nhiêu khách chọn ở tại khách sạn của bạn so với các khách sạn xung quanh (kết quả lớn hơn 100 được coi là tốt trong khi dưới 100 là đáng báo động). Chỉ số RGI so sánh RevPAR khách sạn của bạn với RevPAR trung bình của thị trường (kết quả lớn hơn hoặc bằng 1 là tốt, còn nếu dưới 1 là không) Quản lý tài sản Có rất nhiều yếu tố góp phần tạo nên thành công trong việc quản lý tài sản của khách sạn, qua đó góp phần củng cố sự bền vững tài chính của nhà quản lý và chủ đầu tư. Vị trí của khách sạn, giá trị bất động sản và cả FF&E (furniture, fixtures and equipment) đều đóng vai trò nhất định. Nói tóm lại, quản lý tài sản nhằm tối đa hóa giá trị tài sản của khách sạn. Những phân tích từ tổng quan đến chi tiết về hoạt động kinh doanh chung của khách sạn có thể mang lại thông tin hữu ích về khả năng tạo doanh thu từ các loại hình tài sản khác nhau, ví dụ các phòng khác nhau thu về bao nhiêu tiền, khả năng sinh lời của các nhà hàng thế nào, doanh thu bộ phận spa có tốt không… Kiến thức tổng hợp về vận hành và tài sản cho phép nhà quản lý xác định được các dòng doanh thu tiềm năng. Tài sản cũng có thể được sử dụng hiệu quả hơn nhờ các dự án tân trang hoặc sát nhập. Dịch vụ xuất sắc Ngoài 3 yếu tố kể trên, hoạt động đặc trưng của khách sạn vẫn được định hình bởi các tiêu chí truyền thống. Chúng ta không nhất thiết phải sáng tạo lại chiếc bánh xe trong lĩnh vực đánh giá hiệu quả kinh doanh của khách sạn. Dựa vào những chỉ số tính toán được, chúng ta chỉ đơn giản lắp thêm vài thanh nan hoa để làm tròn và đưa nó vào thực tiễn. Không có bất cứ nhân tố bí ẩn nào khác quyết định thành công của một khách sạn ngoài dịch vụ xuất sắc. Dịch vụ xuất sắc được định nghĩa là “khả năng của nhà cung cấp dịch vụ trong việc đáp ứng một cách nhất quán và đôi khi vượt quá mong đợi của khách hàng”. Định hướng tham vọng này đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và chiến lược khác nhau, bao gồm cam kết thực hiện những hứa hẹn, cung cấp các dịch vụ cá nhân hóa và chủ động xử lý phản hồi của khách hàng. Cung cấp dịch vụ xuất sắc là một thách thức, nó đòi hỏi khách sạn phải gây dựng được một nền văn hóa dịch vụ toàn diện giống như cách Ritz-Carlton đã và đang theo đuổi. Một khi khách sạn của bạn có thể mang lại dịch vụ xuất sắc và nhất quán, khách hàng sẽ tìm đến bạn có khi chỉ vì điều đó. Thành công của dịch vụ xuất sắc sẽ khiến khách hàng quay lại nhiều hơn và kèm theo đó là nhiều hơn các đánh giá tích cực. Với sự bùng nổ của các nền tảng trực tuyến, việc lan tỏa các đánh giá tích cực trên mạng xã hội có tác động không hề kém, nếu không nói là hiệu quả hơn, các chiến dịch marketing tốn kém. Trong bối cảnh nền công nghiệp khách sạn ngày nay, sự xuất sắc của dịch vụ xứng đáng có vị trí quan trọng trong bảng đánh giá hoạt động của khách sạn. Đổi mới Sự đổi mới trong môi trường khách sạn có thể được tìm thấy trong các quy trình đánh giá, bằng cách tham khảo xu hướng của người tiêu dùng và triển khai các hệ thống CNTT phù hợp. Báo cáo đổi mới ngành khách sạn có sự phân biệt tương đối rõ nét giữa đổi mới công nghệ và phi công nghệ. Sức khỏe và an toàn Khi nghĩ đến “sức khỏe và an toàn”, hãy nghĩ đến “phân tích rủi ro, nhãn chất lượng và các quy trình an toàn”. Tại các khách sạn, người sử dụng lao động phải luôn theo dõi chặt chẽ vấn đề sức khỏe và an toàn cho người lao động. Du khách cũng cũng muốn tận hưởng thời gian nghỉ dưỡng của mình trong một môi trường sạch sẽ và an toàn. Đại dịch COVID-19 đã làm nổi bật vai trò của sức khỏe và an toàn. Trong một khoảng thời gian ngắn, các quy định ứng phó trở nên nghiêm ngặt hơn, kì vọng của khách hàng cũng cao hơn đáng kể. Để đáp ứng tình hình mới, hầu hết các thương hiệu khách sạn lớn như Hilton, Four Seasons và Accor đã thiết lập những tiêu chuẩn vệ sinh mới, tăng cường các biện pháp có sẵn, hoặc khởi động các chương trình bảo vệ sự an toàn của khách và nhân viên. Hiệu quả hoạt động của khách sạn được thể hiện chính xác thông qua các chỉ số tài chính và kinh doanh, tuy nhiên bản thân chúng không giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của khách sạn. Chúng giúp đánh giá quá trình vận hành trước đó, giúp trả lời câu hỏi liệu các chương trình nâng cao chất lượng đã đi vào thực chất, liệu chiến lược marketing đã chạm được tới tối đa khách hàng tiềm năng, liệu chiến lược đổi mới sản phẩm có làm tăng năng lực cạnh tranh của khách sạn, liệu khách sạn đã thích ứng trạng thái bình thường mới… để qua đó nhà quản lý và chủ đầu tư xây dựng được một kế hoạch phát triển bền vững cho khách sạn của mình.
×
×
  • Create New...